Vấn đề sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân: Việc Việt Nam nhấn mạnh kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo là một điểm mà phía phản đối hay sử dụng để lập luận Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường. Tuy nhiên, theo Luật sư Eric Emerson từ công ty luật Steptoe LLP đại diện cho Bộ Công Thương Việt Nam, Việt Nam ít can thiệp vào các doanh nghiệp nhà nước hơn Ấn Độ, đồng thời cởi mở hơn với đầu tư nước ngoài so với Indonesia, Canada và Philippines – những nước đã được Mỹ coi là nền kinh tế thị trường.
Trợ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước đã được cắt giảm, và qua các kỳ Đại hội Đảng, vai trò của kinh tế tư nhân đã chính thức được khẳng định và nhấn mạnh. Văn kiện Đại hội Đảng đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất hai triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60-65%.
Mức độ kiểm soát của Chính phủ với một số nguồn lực và giá cả: Việt Nam đã từ bỏ kiểm soát giá cả. Luật Giá 2023 đã loại trừ các mặt hàng như điện, muối, đường, chỉ giữ lại chín mặt hàng thiết yếu cần bình ổn giá: xăng, dầu diesel, khí dầu mỏ hóa lỏng, sữa công thức cho trẻ em, gạo, thức ăn gia súc, vaccine, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thiết yếu cho con người. Các biện pháp can thiệp cũng được quy định rõ chỉ sử dụng trong thời gian nhất định do lý do khẩn cấp như thiên tai hay gián đoạn chuỗi cung ứng.
Các yếu tố khác: Các yếu tố này tùy Bộ Thương mại Mỹ quyết định và có thể bị ảnh hưởng bởi một số lý do khác.
Vậy Mỹ có nên công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường?
Chúng ta nên trả lời câu hỏi này căn cứ vào những nỗ lực đáng kể mà Việt Nam thực hiện. Chúng ta cũng có thể nhìn vào danh sách 72 nước đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó có những nền kinh tế lớn và/hoặc phát triển như Trung Quốc (2004), Nga và các thành viên ASEAN (2007), Australia, New Zealand (2008), Ấn Độ, Hàn Quốc (2009), Nhật Bản (2011), các thành viên của Hiệp hội Thương mại tự do châu Âu EFTA như Na Uy, Thụy Sỹ (2012), Canada (2016) và Vương quốc Anh (2023).
Với những nỗ lực Việt Nam đã thực hiện và sự ghi nhận của những đối tác lớn, Việt Nam thực chất đã vận hành như một nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, vẫn có ý kiến phản đối đến từ một số nghị sĩ ở Thượng viện và Hạ viện Mỹ, Liên minh Tôm miền Nam, Hiệp hội chế biến tôm Mỹ, Liên minh các nhà sản xuất và công nhân thép, v.v.
Sẽ luôn luôn tồn tại những quan điểm khác nhau trong kinh tế, xuất phát từ lợi ích khác nhau của các bên. Từ phía Việt Nam, sau hơn hai thập kỷ chịu bất lợi trong những vụ kiện chống bán phá giá, việc được Mỹ công nhận sẽ giải phóng những trở ngại cho xuất khẩu của Việt Nam, đồng thời thúc đẩy các đối tác còn lại công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường.
Đối với Mỹ, để quyết định trì hoãn hay chính thức công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường, họ sẽ cân nhắc ý kiến từ cả hai chiều. Trên góc nhìn kinh tế học, chính phủ nên quyết định dựa trên lợi ích của toàn xã hội chứ không phải của một vài nhóm lợi ích.
Thương mại tự do sẽ mang lợi ích lớn cho người tiêu dùng, như hạ giá sản phẩm, tăng thêm sự lựa chọn, thúc đẩy hợp tác cùng mở rộng thị trường, mặc dù có thể một vài nhóm ngành sản xuất nội địa sẽ không nhận được bảo hộ nữa. Các doanh nghiệp Mỹ xuất khẩu sang Việt Nam và đang sản xuất đầu tư tại Việt Nam sẽ có lợi khi Việt Nam được công nhận là kinh tế thị trường.
Mỹ cần tận dụng cơ hội để tiếp tục xây dựng mối quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam, nhất là trong bối cảnh các đối thủ cạnh tranh của Mỹ cũng đang tận dụng những hiệp định thương mại mà họ đã ký kết với Việt Nam.
Bài: Thạc sĩ Phan Minh Hòa, giảng viên Kinh tế, Khoa Kinh doanh, Đại học RMIT Việt Nam
Một phiên bản của bài viết này được đăng trên báo Thế giới & Việt Nam. Bài viết được cập nhật thông tin mới vào ngày 26/7/2024.
Hình đầu trang: Paul – stock.adobe.com