Gió lớn từ thị trường toàn cầu lay động ngành cà phê Việt

Gió lớn từ thị trường toàn cầu lay động ngành cà phê Việt

Là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai và nhà sản xuất cà phê Robusta hàng đầu thế giới, ngành cà phê Việt đang phải chống chọi với áp lực từ cả trong lẫn ngoài nước. Tiến sĩ Devmali Perera và Tiến sĩ Majo George (Đại học RMIT) phân tích lý do tại sao.

Ngành cà phê Việt Nam là trụ cột quan trọng của thị trường cà phê toàn cầu và đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc gia.

Việt Nam hiện là nước sản xuất cà phê Robusta lớn nhất thế giới với khoảng 97% sản lượng là cà phê Robusta. Phần còn lại bao gồm cà phê Arabica và các giống đặc sản khác.

Mặc dù lượng tiêu thụ cà phê trong nước đang tăng, xuất khẩu vẫn là nguồn thu nhập chính cho ngành sản xuất cà phê Việt Nam.

Lượng xuất khẩu cà phê ước đạt tổng cộng 25 triệu bao (loại 60 kg/bao) trong niên vụ 2023-2024, giảm khoảng 10% so với năm ngoái. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn là nước xuất khẩu cà phê Robusta lớn thứ hai trên toàn cầu, sau Brazil.

Theo Tiến sĩ Devmali Perera, giảng viên Tài chính đến từ Đại học RMIT, ngành cà phê Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức và thay đổi đáng kể trong bối cảnh thị trường nhiều biến động và áp lực môi trường tăng cao.

Tiến sĩ Perera nhận định: “Thị trường cà phê Việt Nam phải đối mặt với hai thách thức chính trong năm nay: sản lượng giảm và giá tăng”.

“Giá tăng do nhu cầu cả trong và ngoài nước đều tăng cao, đặc biệt là tại các nước Đông Nam Á, trong khi đó điều kiện thời tiết bất lợi và gián đoạn chuỗi cung ứng góp phần khiến sản lượng giảm”, bà nói.

Biểu đồ sản lượng cà phê Việt Nam Sản lượng cà phê của Việt Nam từ năm 2019 đến nay (Nguồn: Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ)

Sản xuất cà phê Việt Nam ngày càng bị ảnh hưởng bởi hạn hán kéo dài và nhiệt độ tăng cao, với hậu quả là năng suất giảm và chất lượng cây trồng bị ảnh hưởng.

Giảng viên cấp cao ngành Quản lý chuỗi cung ứng và logistics Đại học RMIT, Tiến sĩ Majo George giải thích: “Áp lực từ khí hậu đặc biệt gay gắt ở Tây Nguyên, nơi hạn hán nghiêm trọng thiêu rụi nhiều đồn điền cà phê và khiến cho tình trạng khan hiếm nước tưới tiêu trầm trọng hơn”.

Trong khi đó, chuỗi cung ứng toàn cầu đang phải đối mặt với gián đoạn đáng kể do tình trạng thiếu container và tắc nghẽn cảng, khiến các chuyến hàng bị trì hoãn và chi phí tăng cao. Những thách thức này càng trở nên trầm trọng hơn do căng thẳng địa chính trị trên toàn thế giới.

Tiến sĩ George cho biết: “Những rào cản logistics như vậy khiến cà phê Việt Nam khó tiếp cận thị trường quốc tế đúng thời hạn, ảnh hưởng đến năng lực đáp ứng nhu cầu thị trường của doanh nghiệp xuất khẩu”.

Chuỗi giá trị thiếu hiệu quả cũng đặt ra một số thách thức. Nhiều hộ sản xuất nhỏ ở Việt Nam vẫn dựa vào phương pháp canh tác truyền thống nên chất lượng và sản lượng không đồng đều. Việc thiếu cơ sở tiên tiến phục vụ chế biến và bảo quản sau thu hoạch có thể khiến chất lượng bị suy giảm đáng kể.

“Những quy định mới về môi trường, đặc biệt là các quy định của Liên minh châu Âu liên quan đến dư lượng thuốc trừ sâu, đòi hỏi nhà sản xuất phải điều chỉnh phương pháp canh tác và tăng chi phí tuân thủ. Điều này tạo thêm áp lực cho nông dân sản xuất nhỏ, những người có thể không dễ dàng thích nghi nhanh chóng”, Tiến sĩ George nói.

Cây cà phê Nhiều hộ sản xuất nhỏ ở Việt Nam vẫn dựa vào phương pháp canh tác truyền thống khiến chất lượng và sản lượng không đồng đều. (Hình: Unsplash)

Dù có hơn 700.000 héc-ta đất cà phê nhưng Việt Nam đang chật vật tìm đất phù hợp để nâng cao sản lượng do lo ngại nạn phá rừng và áp lực đáp ứng các mục tiêu liên quan đến khí hậu.

Theo Tiến sĩ Perera, nhiều nông dân trồng cà phê trong nước đã chuyển sang trồng sầu riêng do nhu cầu từ thị trường Trung Quốc cho loại trái cây này đang tăng. Sự thay đổi này đã làm giảm thêm diện tích dành cho sản xuất cà phê.

Ngoài ra, nông dân Việt Nam đang phải đối mặt với chi phí sản xuất tăng cao, chủ yếu do giá phân bón và nhân công tăng. Giá cà phê trong nước tăng có thể bù đắp phần nào chi phí sản xuất cho nông dân. Tuy nhiên, chi phí sản xuất tăng khiến các đơn vị xuất khẩu gặp phải nhiều khó khăn.

Tiến sĩ Perera nhận định: “Các đơn vị xuất khẩu hiện đang phải vật lộn với áp lực tài chính, thiếu hụt sản phẩm và chi phí vận chuyển cao hơn, khiến họ thận trọng hơn khi nhận đơn đặt hàng mới”.

“Nhu cầu ngày càng tăng trong bối cảnh chuỗi cung ứng gặp hạn chế đang tạo ra thêm nhiều biến động về giá cả và sự bất ổn trong thị trường cà phê”, bà nói.

Có thể làm gì để hỗ trợ ngành cà phê Việt Nam? Tìm hiểu qua bài viết tiếp theo với tiêu đề: “Pha chế” chiến lược cho ngành cà phê Việt.

Bài: Hoàng Minh Ngọc

  • Logistics

Tin tức liên quan