Liên quan tới hiện diện nhận thức, các bản thu hình bài giảng và lịch sử tin nhắn được lưu lại trong các phiên hỏi-đáp cho phép sinh viên xem lại nội dung sau lớp học. Đồng thời, sinh viên ở các trình độ học tập khác nhau cũng có thể nắm bắt kiến thức môn học tốt hơn.
Tuy nhiên, để đảm bảo chất lượng học tập, sinh viên nhận thấy bản thân cần tự nỗ lực hơn nữa, bao gồm nâng cao ý thức tự thân tìm ra câu trả lời, làm bài tập về nhà và tổng hợp kiến thức.
Một quan sát đáng chú ý khác là mặc dù việc giảng dạy đã chuyển sang hình thức trực tuyến nhưng hầu hết các phương thức đánh giá vẫn giữ nguyên như khi học trực tiếp. Theo nhóm nghiên cứu, cần phải xem xét lại toàn diện xem các trường đại học nên điều chỉnh cách thức đánh giá sinh viên ra sao cho phù hợp với nền tảng dạy và học đã thay đổi, cũng như các kỹ năng mới của cả sinh viên và giảng viên.
Song song với điều đó, nghiên cứu ghi nhận những phản ứng trái chiều về hiện diện xã hội trong học tập trực tuyến. Quy mô lớp học lớn và việc thiếu các mối quan hệ cá nhân được xác lập từ trước được coi là lý do chính của việc thiếu giao lưu trong lớp.
“Trong nghiên cứu của chúng tôi, những sinh viên không quen biết nhau sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi làm việc nhóm. Chúng tôi cũng nhận thấy một số cách kiểm tra/đánh giá không yêu cầu sinh viên hợp tác chặt chẽ với nhau, khiến nhu cầu xây dựng sự hiện diện xã hội khi học tập trực tuyến cũng giảm theo. Đây là lỗ hổng mà các giảng viên cần xem xét nghiêm túc”, Tiến sĩ Thuận cho biết.
Tiến sĩ Hiệp nhận xét rằng, “tìm hiểu nhu cầu của người học và đánh giá hiệu quả của các nguồn lực có sẵn luôn là điều quan trọng trong duy trì chất lượng giảng dạy cao, dù trong giảng dạy trực tuyến hay trực tiếp”.
“Qua nghiên cứu này, chúng tôi cũng kêu gọi nghiên cứu sâu hơn về các công cụ, kỹ thuật và thông lệ tốt nhất để tăng cường hiện diện trực tuyến trong học tập kỹ thuật số mà không gây quá tải cho giảng viên. Trên tinh thần đó, các nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào cách triển khai giáo dục trực tuyến vừa hiệu quả và phù hợp với thực tế, vừa cân nhắc tới các hạn chế về nguồn lực”, Tiến sĩ Hiệp kết luận.
Bài: Hoàng Minh Ngọc