Cải thiện sức khỏe tâm thần của phụ nữ để phát triển bền vững

Cải thiện sức khỏe tâm thần của phụ nữ để phát triển bền vững

Nhân ngày Quốc tế Phụ nữ, hai nhà tâm lý học Huỳnh Minh Thư và Vũ Bích Phượng thảo luận về những bước tiến cần thiết để thúc đẩy công bằng giới và nâng cao sức khỏe tâm thần cho phụ nữ tại Việt Nam.

Trong bài viết sau, hai chuyên gia nêu bật cách những kỳ vọng đa chiều từ xã hội đang tác động đến phụ nữ và lý do Việt Nam cần ưu tiên sức khỏe tâm thần của phụ nữ nếu muốn thực sự phát triển bền vững.

Kỳ vọng xã hội đối với phụ nữ Việt Nam trong quá khứ và hiện tại

Trong những câu tục ngữ mang đậm dấu ấn Nho giáo, phụ nữ thường được chỉ dạy phải siêng năng, hy sinh và nghe lời. Những câu nói như “Công, dung, ngôn, hạnh” củng cố quan niệm rằng giá trị của người phụ nữ gắn liền với cống hiến của họ cho gia đình. “Gái có công thì chồng không phụ” cho rằng thành công của một cuộc hôn nhân phụ thuộc vào nỗ lực của người phụ nữ, chứ không phải của người đàn ông, phản ánh kỳ vọng không bình đẳng về sự tận tụy của phụ nữ.

Ngoài trách nhiệm gia đình, phụ nữ Việt còn đối mặt với áp lực phải thành công trong sự nghiệp (“Giỏi việc nước, đảm việc nhà”). Kỳ vọng này có nguồn gốc lịch sử từ thời chiến khi phụ nữ được coi là dũng cảm, hy sinh và kiên cường, có khả năng chống lại quân xâm lược giống như những người lính nam (“Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”). Nam giới Việt Nam không phải đối mặt với những kỳ vọng tương tự.

Cô gái đứng trước tàu metro Những kỳ vọng đa chiều từ xã hội đang tác động đến phụ nữ. (Hình: Unsplash)

Những thông điệp ẩn thể hiện sâu sắc sự bất bình đẳng giới cũng hiện hữu trong các câu tục ngữ khác. “Đàn ông rộng miệng thì sang” còn “đàn bà rộng miệng tan hoang cửa nhà”, phản ánh định kiến giới sâu sắc khi đàn ông được khuyến khích lên tiếng và quyết đoán, còn phụ nữ phải kín đáo trong lời nói. Hoặc “Đàn ông đi biển có đôi, đàn bà đi biển đơn côi một mình” khuyên phụ nữ nên tự đối phó với các vấn đề cá nhân, và rằng hôn nhân, việc sinh con và trách nhiệm gia đình với họ là một hành trình cô đơn “trên biển”.

Bên cạnh đó, tiêu chuẩn ngoại hình cũng đặt ra nhiều áp lực với phụ nữ. Những câu nói như “Những người thắt đáy lưng ong, đã khéo chiều chồng, lại khéo nuôi con” hay “Phụ nữ mắt trắng môi thâm, ví chẳng hại chồng thì cũng hại con” phản ánh thêm một lớp kỳ vọng và áp lực lên họ.

Bất chấp xã hội đang hiện đại hóa, những quan niệm ăn sâu này tiếp tục ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của phụ nữ Việt Nam.

Gánh nặng về tâm lý và thể chất với phụ nữ Việt

Phụ nữ phải chịu căng thẳng, lo âu và trầm cảm cao hơn đáng kể so với nam giới tại Việt Nam, theo một nghiên cứu năm 2020. Gánh nặng kép từ công việc và trách nhiệm gia đình thường khiến họ kiệt sức, tự vấn và tự trách mình. Các rào cản tại nơi làm việc càng làm trầm trọng thêm những khó khăn này. Phụ nữ phải đối mặt với phân biệt đối xử trong quá trình thăng tiến nghề nghiệp. Chẳng hạn, nghiên cứu trước đây của Thạc sĩ Vũ Bích Phượng và cựu đồng nghiệp cho thấy ứng viên nữ có diện mạo kém hấp dẫn hơn có nguy cơ cao bị đánh giá tiêu cực về tính cách trong quá trình tuyển dụng. Mặt khác, kỳ vọng ngoại hình cũng có thể gây bất lợi cho phụ nữ, khi mà vẻ ngoài hấp dẫn thường được lấy làm cớ để đổ lỗi cho họ khi bị quấy rối và bóc lột. Điều này củng cố các tiêu chuẩn kép và tạo ra tình huống “bất lợi đủ đường” cho phụ nữ.

Không chỉ vậy, việc làm mẹ mang đến thêm nhiều căng thẳng cho phụ nữ. Sau khi sinh con, các bà mẹ ở Việt Nam thường phải gánh vác trách nhiệm chăm sóc con cái, bị thiếu ngủ và thay đổi nội tiết tố mà không có sự hỗ trợ đầy đủ về mặt thể chế và tâm lý, làm tăng nguy cơ trầm cảm sau sinh. Sự phân biệt đối xử tại nơi làm việc đối với các bà mẹ – còn được gọi là “hình phạt làm mẹ” – buộc nhiều người phải quay lại làm việc sớm vì lo sợ mất việc hoặc sự nghiệp đình trệ, khiến họ khó ưu tiên sức khỏe tâm thần của mình hơn hết.

Mẹ với hai con nhỏ Việc làm mẹ mang đến thêm nhiều căng thẳng cho phụ nữ. (Hình: Pexels)

Ngoài áp lực từ gia đình và nghề nghiệp, bạo lực vẫn luôn là một vấn đề nghiêm trọng. Mặc dù có bảo vệ của pháp luật, gần 63% phụ nữ Việt Nam vẫn phải trải qua một hoặc nhiều hình thức bạo lực trong đời, theo Nghiên cứu quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ Việt Nam năm 2019. Nghiên cứu này cũng phát hiện rằng phần lớn đối tượng thực hiện hành vi bạo lực là nam giới (60,6%) và hơn một phần ba (35,4%) thủ phạm là thành viên nam trong gia đình.

Những bi kịch gần đây như vụ nam thanh niên đốt mẹ ruột mình hoặc người đàn ông dùng dao sát hại bạn gái ở nơi công cộng, phản ánh những nguy hiểm mà phụ nữ phải đối mặt, đồng thời là lời nhắc nhở u ám về sự dai dẳng của bạo lực giới.

Sức khỏe tâm thần của phụ nữ có tác động đến các thế hệ tương lai

Sức khỏe tâm thần của phụ nữ không chỉ là mối quan tâm của một cá nhân mà còn là vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng, có tác động sâu sắc đến các thế hệ tương lai. Nghiên cứu cho thấy căng thẳng, lo âu, trầm cảm và nguy cơ tự tử của người mẹ có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động nuôi dạy con cái, mối quan hệ gắn bó giữa mẹ và con, sự phát triển về mặt cảm xúc xã hội và nhận thức, cũng như sức khỏe lâu dài của trẻ. Những vấn đề về sức khỏe tâm thần có thể được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua cơ chế sinh học, hoặc các hành vi học được trong môi trường gia đình không lành mạnh.

Sức khỏe tâm thần của người mẹ ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của trẻ. Thế nhưng, phụ nữ thường không được khuyến khích thảo luận cởi mở về sức khỏe tâm thần khiến nhiều người phải thầm lặng chịu đựng. Do đó, việc nâng cao sức khỏe tâm thần ở phụ nữ Việt Nam phải được coi là một sự đầu tư cho sức khỏe cộng đồng nhằm đảm bảo sự lành mạnh trong sức khỏe tâm thần liên thế hệ và sự phát triển bền vững của cả quốc gia.

(Trái qua phải) Thạc sĩ Huỳnh Minh Thư (nghiên cứu sinh Tiến sĩ đạt học bổng Phụ nữ trong lĩnh vực STEMM) và Thạc sĩ Vũ Bích Phượng (giảng viên bộ môn Tâm lý học) tại Đại học RMIT Việt Nam (Trái qua phải) Thạc sĩ Huỳnh Minh Thư (nghiên cứu sinh Tiến sĩ đạt học bổng Phụ nữ trong lĩnh vực STEMM) và Thạc sĩ Vũ Bích Phượng (giảng viên bộ môn Tâm lý học) tại Đại học RMIT Việt Nam

Cùng nhìn lại và nhìn tới sự tiến bộ

Ngày Quốc tế Phụ nữ không chỉ là ngày tôn vinh sự tiến bộ, mà còn là dịp để phân tích những điểm cần làm tốt hơn. Các nghiên cứu, bao gồm luận án tiến sĩ của Thạc sĩ Huỳnh Minh Thư về những chuẩn mực giới đang thay đổi tại Việt Nam, cho thấy mặc dù thay đổi chính sách đã giúp tăng tỉ lệ tham gia kinh tế của phụ nữ, họ vẫn phải đối mặt với những kỳ vọng xã hội không thực tế.

Để tiến về phía trước, chúng ta phải hành động: cần mở rộng các dịch vụ sức khỏe tâm thần và hỗ trợ cộng đồng, công nhận sức khỏe tâm thần của phụ nữ là một ưu tiên trong sức khỏe cộng đồng, và thực thi nghiêm ngặt các biện pháp bảo vệ chống lại bạo lực giới. Các cải cách tại nơi làm việc – chẳng hạn như mở rộng chế độ thai sản (cho người bố), thực thi các chính sách chống phân biệt đối xử, và hỗ trợ hình thức làm việc linh hoạt – đóng vai trò quan trọng trong việc giảm bớt gánh nặng cho những người mẹ đi làm. Một việc quan trọng không kém là cần thách thức các chuẩn mực giới lỗi thời thông qua giáo dục và khắc họa phụ nữ một cách tích cực trên các phương tiện truyền thông. Công bằng giới không phải là cuộc cạnh tranh giữa các giới mà là một hệ thống công bằng nơi mọi người đều được hưởng lợi.

Tiến trình thực hiện công bằng giới nhanh chóng tại Việt Nam đến nay đã chứng minh rằng thay đổi là có thể. Bằng cách tiếp tục thách thức những kỳ vọng lỗi thời và thúc đẩy trách nhiệm chung, chúng ta có thể tạo ra một tương lai nơi tất cả mọi người có thể thực sự tiếp cận cơ hội bình đẳng, đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững trong tầm tay.

Bài: Thạc sĩ Huỳnh Minh Thư (nghiên cứu sinh Tiến sĩ đạt học bổng Phụ nữ trong lĩnh vực STEMM) và Thạc sĩ Vũ Bích Phượng (giảng viên bộ môn Tâm lý học), Khoa Khoa học, Kỹ thuật và Công nghệ, Đại học RMIT Việt Nam

Hình đại diện: YURII Seleznov – stock.adobe.com | Hình đầu trang: Mix and Match Studio – stock.adobe.com

Tin tức liên quan