Bà Phương Thu Hiền từ Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam cho biết trong thời đại số, các bảo tàng cần hướng tiếp cận sáng tạo để giới thiệu hiện vật với công chúng, đặc biệt là đến thế hệ trẻ.
“Trong những năm gần đây nhiều du khách đến tham quan bảo tàng là thế hệ trẻ tìm hiểu về lịch sử và truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Chúng tôi hy vọng rằng với việc áp dụng công nghệ mới này, các hiện vật của bảo tàng sẽ sống động và có tính thẩm mỹ cao hơn để đến gần với hơn với công chúng, đặc biệt là các bạn trẻ, qua đó giáo dục được truyền thống, lịch sử của phụ nữ Việt Nam”, bà nói.
Chủ nhiệm chương trình Thời trang tại RMIT Việt Nam và Chủ nhiệm dự án VDRS, bà Corinna Joyce cho biết VDRS đóng vai trò nền tảng trong việc bảo tồn tri thức truyền thống của 53 dân tộc thiểu số Việt Nam.
“Chúng tôi hy vọng sẽ xây dựng một nền tảng không chỉ bảo tồn kiến thức mà còn mở rộng phạm vi phổ biến những kiến thức này. Chúng tôi đang xem xét đến việc hợp tác với các nghệ nhân để tổng hợp các kiến thức khác nhau. Bên cạnh việc bảo tồn, điều này còn giúp đưa kỹ thuật may mặc truyền thống vào bối cảnh hiện đại, nhằm đóng góp cho sự phát triển của ngành thời trang”.
“Tập huấn là một phần trong việc xây dựng nền tảng này, đặc biệt từ khía cạnh lưu trữ. Chúng tôi mong những kỹ thuật và kiến thức truyền thống sẽ được truyền tải đến nhiều người hơn. Tại Việt Nam, các kỹ thuật may mặc truyền thống hiện đang còn khá riêng rẽ. Thông qua số hóa, chúng tôi muốn xây dựng một nền tảng mà mọi người có thể tiếp cận với vẻ đẹp, kỹ thuật và kiến thức đằng sau những truyền thống này. Với công nghệ 3D, chúng tôi tin có thể đạt được hoài bão trên”, bà nói.
Buổi tập huấn tăng cường hơn nữa quan hệ đối tác mới và hiện có giữa RMIT Việt Nam và các bảo tàng, trung tâm lưu trữ trên khắp Việt Nam, hỗ trợ cho những nỗ lực không ngừng của nhà trường trong việc kết hợp di sản truyền thống với tiến bộ công nghệ hiện đại, thúc đẩy hiểu biết và đánh giá sâu sắc hơn về nền tảng văn hóa phong phú của Việt Nam.
Bài: Hoàng Hà